Mỗi người dân Việt Nam đã không còn xa lạ khi nhắc đến bánh phu thê, chiếc bánh vẫn thường xuất hiện trong mỗi dịp cưới hỏi, lễ tết và làm bánh tráng miệng trong mỗi bữa tiệc. Bánh phu thê không chỉ là một trong những loại bánh truyền thống của Việt Nam mà còn hàm chứa trong đó triết lý âm dương của cả dân tộc và là loại bánh tượng trưng cho sự thủy chung.
Bánh Phu Thê Bảo minh là loại bánh làm từ bột nếp lọc với nhân đậu xanh và dừa tươi, chiếc bánh màu vàng óng, màu trắng của sợi dừa, màu vàng nhạt của đậu thêm một sắc nóng ấm và thân mật ngọt ngào. Khi thưởng thức ta sẽ cảm nhận được hương vị rất riêng, dai, giòn, mềm và rất thơm mát cùng màu sắc hình thức đẹp càng ăn càng dẻo rất thơm ngon.
Theo tương truyền từ xưa, tên gọi bánh phu thê là do sự tích vua Lý Anh Tông đi đánh trận, người vợ ở nhà thương chồng vất vả đã tự tay vào bếp làm bánh gửi ra cho chồng...
Vua ăn thấy ngon, nghĩ đến tình vợ chồng đã đặt tên bánh là bánh phu thê. Cũng vì tên gọi ấy mà bánh phu thê (hay cũng còn gọi là xu xê) luôn được buộc thành cặp, biểu trưng cho sự gắn bó son sắt của tình chồng vợ.
Có người lại truyền nhau tên gọi bánh “phu thê” gắn liền với câu chuyện kể về vợ chồng người lái buôn thuở xưa. Chuyện kể rằng, trước lúc người chồng lên đường đi buôn ở phương xa, người vợ làm bánh tặng chồng và thề rằng cho dù xa nhau nhưng lòng nàng vẫn luôn ngọt ngào, đậm đà như bánh. Chồng cảm động đặt tên cho bánh là bánh phu thê. Chẳng ngờ đến phương xa, người chồng bị say đắm bởi sắc đẹp của các cô gái lạ và không muốn quay về. Người vợ ở nhà biết tin liền làm bánh gửi cho chồng kèm theo lời nhắn:
“Từ ngày chàng bước xuống ghe
Sóng bao nhiêu đợt bánh rầu bấy nhiêu”
Nhận được bánh và lời nhắn của vợ, người chồng hối hận liền tức tốc quay về và không còn nghĩ đến chuyện thay lòng đổi dạ nữa. Từ đó, người ta truyền nhau rằng bánh phu thê tượng trưng cho sự thủy chung của vợ chồng, và thường hay có mặt trong tiệc cưới như một lời nhắn nhủ đến các đôi vợ chồng trẻ.
Lại có câu chuyện khác thế này, những em nhỏ của làng Đình Bảng kể lại rằng: Theo truyền thuyết, thời Lý vào những ngày hội hè hay ngày Tết, người dân làng Đình Bảng thường dùng sản vật mình đã cấy trồng ra làm bánh Su Sê, thành tâm dâng cúng tổ tiên, rồi cùng hưởng lộc. Một lần hội làng, Lý Thánh Tông cùng vợ là Nguyên phi Ỷ Lan về quê lễ Lý Thái Tổ và Lý Thái Tông ở Đền Đô. Tại đây, dân làng đã dâng Đức vua và Nguyên Phi đặc sản của quê hương là bánh Su Sê. Đức vua và Nguyên Phi thưởng thức món bánh này và khen ngon. Thấu suốt sự hàm chứa nhiều ý nghĩa nhân văn của loại bánh ngon, nhà vua đã truyền rằng bánh nên là một lễ vật trong ngày vui kết thành phu thê. Từ đó, bánh được gọi là bánh Phu Thê.
Song dù là truyền thuyết nào thì cũng đều chung một quan điểm để nói lên rằng bánh phu thê tượng trưng cho sự thủy chung, cho tình nghĩa vợ chồng. Có lẽ bởi vậy mà tục lệ trong đám hỏi phải có bánh phu thê đã trở thành truyền thống đối với người Việt Nam, đặc biệt là người dân kinh bắc.
Sở dĩ gọi là bánh phu thê (chồng vợ) vì đó là biểu tượng của đôi vợ chồng phận đẹp duyên ưa: Vuông tròn, ngọt ngào, trong trắng mềm dẻo, thơm tho, xanh thắm, đồng thời cũng là biểu tượng của đất trời (trời tròn, đất vuông) có âm dương ngũ hành: Ruột trắng, nhân vàng, hai vỏ xanh úp lại buộc bằng sợi dây hồng.
Để làm bánh ra Bánh phu thê người thợ làm bánh phải trải qua nhiều bước rất công phu và tỷ mỷ, từ khâu chọn loại gạo nếp cái hoa vàng thơm ngon. Gạo đem vo sạch, để ráo nước và dùng cối giã chứ không được xay bằng máy. Sau đó, lọc lấy tinh bột gạo. Một cân gạo nếp cái hoa vàng thường chỉ lấy được 4 lạng tinh bột. Bột lọc đó lại đem xay cho thật nhuyễn rồi phơi hoặc sấy khô để qua 15 ngày mới đem ra làm bánh, nếu làm ngay thì bánh sẽ nát và mất vị ngon của bánh.
Nhân bánh phu thê làm từ đỗ xanh ngâm kỹ đãi sạch vỏ, hấp chín, nghiền mịn, thắng với đường và trộn lẫn vài sợi dừa đã được nạo nhỏ. Khi ăn, bánh thường được cắt làm bốn nên trong nhân bánh 4 hạt sen được đặt ở 4 góc.
Khi bóc chiếc bánh ra ta sẽ thấy bánh có màu vàng ươm trong suốt nhìn rõ những sợi đu đủ nạo nhỏ rắc lẫn bên trong trông thật hấp dẫn. Màu vàng của vỏ bánh được tạo thành từ hoa dành dành. Người làm bánh đem hoa dành dành phơi khô, khi nào làm bánh thì ngâm vào nước sôi để chiết xuất nước có màu vàng, lấy nước này trộn vào bột để tạo màu bánh.
TVC giới thiệu bánh Bảo Minh
Theo truyền thống bánh được gói bằng hai thứ lá. Bên trong là lớp lá chuối chống dính, ngoài cùng lá lớp lá dừa, tuy trên tráp ăn hỏi có thể bánh được đặt trong hộp giấy màu đỏ. Luộc bánh tốt nhất là luộc bằng bếp củi đun vừa lửa.
Ở nhiều nơi bánh phu thê được sử dụng như một lễ vật đựng trong các tráp ăn hỏi. Trong đám cưới người ta cũng dùng bánh này làm món tráng miệng.
Cũng giống như nhiều loại bánh truyền thống khác của Việt Nam, bánh phu thê không cầu kỳ về hình thức nhưng đừng nhìn vẻ ngoài đơn giản mà nghĩ rằng cách làm bánh cũng đơn giản. Để có được một chiếc bánh hoàn hảo, thơm ngon phải trải qua nhiều công đoạn chuẩn bị, thực hiện kỹ lưỡng cũng như áp dụng các phương pháp bí truyền Bảo Minh cho ra những chiếc bánh phu thê đậm đà ngọt ngào không sử dụng hóa chất độc hại, không chất bảo quản, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng tin tưởng về chất lượng bánh.
Với ý nghĩa sâu sắc và hương vị thơm ngon đặc biệt, bánh phu thê trở thành một phần không thể thiếu trong mỗi đám hỏi của người Việt; đồng thời cũng là món ăn vặt hấp hẫn, có thể làm quà biếu ý nghĩa thơm ngon dành cho người người thân bạn bè.
Thêm đánh giá