Chùa Bái Đính - Ngôi chùa lớn nhất Đông Nam Á
Vinacel - Sàn Giao Dịch TMĐT Kết Nối Trực Tiếp Nhà Cung Cấp Đến Người Tiêu Dùng | Cam kết bán hàng chính hãng, đúng giá, đúng chất lượng, giao hàng nhanh, đổi trả tại chỗ
CẨM NANG DU LỊCH

Chùa Bái Đính - Ngôi chùa lớn nhất Đông Nam Á

Chùa Bái Đính - Ngôi chùa lớn nhất Đông Nam Á

Chùa Bái Đính được người ta thường gọi với cái tên Đệ nhất danh thắng tâm linh tại Ninh Bình. Với những dãy đá vôi hàng triệu năm tuổi, hình thành các thung lũng, hang động, hồ đầm, hệ sinh thái và rừng ngập mặn, khu du lịch Trang An – Bái Đính đã thu hút rất nhiều lượt khách tham quan mỗi năm.

Lịch sử hình thành khu Du lịch tâm linh Chùa Bái Đính

Hơn 1000 năm về trước, tại Ninh Bình đã có ba triều đại Vua nối tiếp nhau ra đời: nhà Đinh, nhà Tiền Lê và nhà Lý. Ba triều đại phong kiến này đều rất quan tâm đến đạo Phật và coi đạo Phật là Quốc giáo; cho nên tại Ninh Bình có rất nhiều chùa cổ, trong đó có chùa Bái Đính, trên dãy núi Tràng An.

Năm 1136, khi thiền sư Nguyễn Minh Không đi tìm cây thuốc để chữa bệnh “hóa hổ” cho vua Lý Thần Tông, ngài đã phát hiện ra hang động trên núi Đính và chọn nơi đây để xây dựng tượng Phật, làm nơi tu hành.

TVC Giới thiệu Chùa Bái Đính - Ngôi chùa lớn nhất Đông Nam Á

Năm 968, Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân và lên ngôi hoàng đế, ông đã lên núi Đính – ngọn núi linh thiêng này lập đàn tế trời để cầu mưa thuận, gió hòa, quốc thái, dân an và phong hầu bái tướng sĩ. Tiếp đó, Vua Quang Trung cũng đã về đây lập đàn tế cờ động viên quân sĩ trước khi ra Thăng Long đại phá quân Thanh.

Quần thể chùa Bái Đính hiện nay gồm một khu chùa cổ và một khu chùa mới được xây dựng từ năm 2003. Chùa nằm trên sườn núi, giữa những thung lũng mênh mông hồ và núi đá, ở cửa ngõ phía tây vào cố đô Hoa Lư.

Đi Chùa Bái Đính vào khoảng thời gian nào?

Thường khoảng thời gian đẹp nhất để đi Bái Đính là vào đầu năm từ tháng 1-3, thời tiết lúc này mát mẻ, không quá nóng. Đây cũng là mùa lễ hội ở chùa nên có thể kết hợp du xuân vãn cảnh. Tuy nhiên, đi vào mùa này lại có một nhược điểm là du khách rất đông, vì vậy mọi người cần chuẩn bị và lên 1 lịch trình tham quan cụ thể.

Chùa Bái Đính - Đệ nhất danh thắng tâm linh tại Ninh Bình
Chùa Bái Đính - Đệ nhất danh thắng tâm linh tại Ninh Bình

Đi tới Tràng An bằng cách nào?

Đi tới Ninh Bình

1. Đường bộ

Ninh Bình là một điểm nút giao thông quan trọng, có 9 quốc lộ (trong đó có 6 quốc lộ khởi đầu và 3 quốc lộ đi qua) dàn đều trên tất cả các huyện, thành phố, thị xã trong tỉnh nên phương tiện thuận lợi nhất để đến với Ninh Bình chính là thông qua hệ thống giao thông đường bộ.

Các tuyến xe đi Ninh Bình từ Hà Nội đều xuất phát từ bến xe Giáp Bát và kết thúc ở bến xe trung tâm Ninh Bình. Do Tp Ninh Bình cũng nằm ngay sát trên trục QL1A nên ngoài các tuyến xe này, các bạn có thể sử dụng bất cứ một tuyến xe nào khác từ Hà Nội đi vào các tỉnh miền Trung hay miền Nam (hãy lựa chọn các tuyến xe Thanh Hóa, Vinh, Hà Tĩnh… vì các tuyến này số lượng nhiều, chạy khá liên tục).

Với đường cao tốc, từ Hà Nội đi Ninh Bình giờ chỉ mất khoảng 1h đồng hồ
Với đường cao tốc, từ Hà Nội đi Ninh Bình giờ chỉ mất khoảng 1h đồng hồ

Nếu sử dụng phương tiện ô tô, từ Hà Nội các bạn có thể đi theo đường cao tốc Pháp Vân – Cầu Giẽ – Ninh Bình, với khoảng cách khoảng 90km chỉ mất khoảng 1 tiếng các bạn sẽ tới được trung tâm Tp Ninh Bình, từ đây đi tới các địa điểm du lịch trong tỉnh hầu như không quá 30km.

Nếu sử dụng phương tiện xe máy, từ Hà Nội các bạn đi theo đường QL1A cũ qua Hà Nam rồi đi theo hướng Ninh Bình Thanh Hóa. Chú ý là tránh không đi nhầm sang phía hướng Nam Định – Thái Bình để đỡ vòng vèo.

2. Đường sắt

  • Ninh Bình có trục đô thị Tam Điệp – Ninh Bình nằm trên tuyến đường sắt Bắc-Nam. Trên địa bàn tỉnh có các ga Ninh Bình, ga Cầu Yên, ga Ghềnh và ga Đồng Giao. Chính vì vậy, các bạn dù ở trong Nam hay ngoài Bắc đều có thể dễ dàng đến với Ninh Bình bằng các chuyến tàu Thống Nhất.
  • Từ Hà Nội có các chuyến tàu SE1 (19h30) đến Ninh Bình lúc 21h46, tàu SE3 (22h00) đến Ninh Bình lúc 0h10, tàu SE5 (9h00) đến Ninh Bình lúc 11h21, tàu SE7 (6h00) đến Ninh Bình lúc 8h22.
  • Nếu xuất phát từ Sài Gòn, các chuyến tàu đều đến Ninh Bình hầu hết vào giờ khá muộn, chuyến tàu duy nhất phù hợp mà các bạn nên đi là SE8 xuất phát từ ga Sài Gòn lúc 6h00 và đến Ninh Bình lúc 13h15 ngày hôm sau.
Ga Ninh Bình hiện tại cũng đã được nâng cấp khá nhiều
Ga Ninh Bình hiện tại cũng đã được nâng cấp khá nhiều

Từ Ninh Bình tới Bái Đính

Từ cuối đường cao tốc Ninh Bình tới chùa Bái Đính còn khoảng hơn 20km, nếu đi đến Ninh Bình bằng phương tiện công cộng và có đông người các bạn có thể thuê một chuyến taxi để tới Bái Đính, đây là phương án khá hợp lý bởi chia đều ra thì số tiền taxi phải trả cho một người cũng không nhiều. Nếu đi ít người, hãy lựa chọn phương án thuê xe máy tại Ninh Bình rồi từ Tp Ninh Bình khám phá Bái Đính.

Nếu sử dụng phương tiện cá nhân, sau khi ra khỏi đường cao tốc Ninh Bình, các bạn quay trở lại Tp Ninh Bình theo hướng đi Hà Nội, tới đường Tràng An đi theo hướng KDL Tràng An và Cố đô Hoa Lư, qua khỏi đây sẽ tới Bái Đính.

Giá vé khi tham quan

Bảng giá vé khi tham quan chùa Bái Đính (vé có thể thay đổi theo thời gian)

  • Xe điện: 30.000 đồng/ người/chiều. 
  • Vào Bảo tháp: 50.000 đồng/ người.

Đi lại tại chùa Bái Đính

Từ cổng chùa Bái Đính vào đến trung tâm khoảng 3,5 km, các bạn có thể lựa chọn phương án đi bộ hoặc đi xe điện, xe chạy liên tục và vé được bán ngay tại bến xe.

Nếu không muốn đi bộ, các bạn có thể mua vé xe điện vào chùa
Nếu không muốn đi bộ, các bạn có thể mua vé xe điện vào chùa

Lưu trú tại Bái Đính

Nếu chỉ đi Bái Đính trong ngày, chắc các bạn cũng không cần quan tâm tới các khách sạn hay nhà nghỉ tại Bái Đính làm gì. Tuy nhiên, với những bạn muốn đi thăm thú nhiều nơi ở Ninh Bình mà Bái Đính chỉ là một trong những điểm đến thì có thể sẽ quan tâm tới việc lưu trú ở đây.

TVC Giới thiệu Chùa Bái Đính - Kỳ vĩ ngôi chùa lớn nhất Đông Nam Á

Ngay trong chùa Bái Đính hiện tại có một khách sạn của Công ty Tràng An, có thể coi như một khu resort nhỏ trong khuôn viên chùa. Khách sạn có các loại phòng từ bình thường cho đến phòng cao cấp với giá cả tương đối cao. Nếu muốn một giải pháp tiết kiệm hơn, các bạn có thể nghỉ ở một số khách sạn hay homestay của người dân ngay phía bên ngoài chùa.

Ngoài khách sạn ngay trong khuôn viên chùa Bái Đính, còn khá nhiều homestay cũng như nhà nghỉ của người dân ở xung quanh chùa
Ngoài khách sạn ngay trong khuôn viên chùa Bái Đính, còn khá nhiều homestay cũng như nhà nghỉ của người dân ở xung quanh chùa

Các địa điểm tham quan trong chùa Bái Đính

1. Khu chùa Bái Đính 

Tam quan ngoại

Chùa Bái Đính có 3 tam quan ngoại được xây dựng cao rộng, biểu tượng cho 3 cửa để vào chùa. Mỗi tam quan ngoại có 3 cửa, được dựng bằng bê tông cốt thép và ốp đá bên ngoài, có bốn mái cong nhỏ lợp đá ở phía trên.

Tam quan ngoại
Tam quan ngoại

Tam quan nội

Tam quan nội được xây dựng hoàn toàn bằng gỗ Tứ Thiết, cao 16,5m, dài 32m, rộng 13,5m. Tam quan nội có 4 cột cái, mỗi cột cao 13,85m, đường kính 0,87m và nặng khoảng 10 tấn. Tam quan nội có 3 tầng mái uống cong ở bốn phía, lợp bằng ngói men ống Bát Tràng màu nâu sẫm. Trong tam quan đặt 2 tượng hộ pháp bằng đồng, mỗi tượng cao 5,5m và nặng 12 tấn.

Tam quan nội
Tam quan nội

Hành lang La Hán

Hành lang La Hán được thiết kế hoàn toàn bằng gỗ, các vì kèo mái được kết cấu kiểu giá chiêng chồng giường con nhị, gồm 2 dãy, dài 3.400m với 250 gian, mỗi gian có kích thước 4,5m x 4,5m. Dọc hai hành lang tả, hữu đặt 500 pho tượng La Hán tạc bằng đá nguyên khối, do các nghệ nhân làng nghề đá Ninh Vân (Hoa Lư – Ninh Bình) chế tác.

Mỗi tượng cao từ 2-2,5m, nặng khoảng 2-2,5 tấn. Mỗi pho tượng bộc lộ một hình dáng, thần thái khác nhau, thể hiện triết lý Đạo giáo với những hỷ, nộ, ái, ố trong đời sống thường nhật của con người. Hành lang La Hán đã được Tổ chức Kỷ lục Châu Á xác nhận là: “Hành lang 500 vị La Hán dài nhất”.

Hành lang La Hán
Hành lang La Hán

Tháp chuông

Tháp chuông được xây dựng bằng bê tông cốt thép giả gỗ, kiến trúc kiểu tháp chuông cổ, hình bát giác, có 3 tầng mái cong, lợp bằng ngói men ống Bát Tràng màu nâu sẫm. Tháp chuông cao 22m, đường kính 17m, mang dáng dấp của bông sen.

Bên trong tháp chuông treo quả chuông đồng nặng 36 tấn, do các nghệ nhân ở Huế đúc. Quả chuông đã được Trung tâm Sách Kỷ lục Việt cấp bằng Xác nhận kỷ lục: “Đại hồng chuông lớn nhất Việt Nam”. Phía dưới chuông đồng có đặt chiếc trống đồng đúc theo mẫu trống đồng Đông Sơn, trọng lượng 13 tấn, đường kính hơn 6m, chiều cao gần 7m.

Tháp chuông
Tháp chuông

Điện Phật Bà

Điện Quan Thế Âm Bồ Tát được xây dựng hoàn toàn bằng gỗ tứ thiết, gồm 7 gian, cao 14,8m, dài 40,4m, rộng 16,8m. Gian giữa của điện đặt tượng Chuẩn Đề Quan Âm nghìn mắt nghìn tay đúc bằng đồng dát vàng, nặng 80 tấn, cao 9,57m. Pho tượng đã được Trung tâm Sách Kỷ lục Việt Nam cấp bằng xác nhận là: “Tượng Quan Thế Âm Bồ Tát bằng đồng lớn nhất Việt Nam”.

Điện Quan Thế Âm Bồ Tát được xây dựng hoàn toàn bằng gỗ tứ thiết
Điện Quan Thế Âm Bồ Tát được xây dựng hoàn toàn bằng gỗ tứ thiết

Hồ phóng sinh

Hồ Phóng Sinh có chiều ngang 63m, chiều dài 77m, diện tích gần 5000m2. Trong Hồ trồng Sen. Hoa Sen là biểu tượng cho Đức Phật và cõi Niết Bàn. Hồ ở dưới thấp là âm, chùa trên cao là dương. Do đó, Hồ Phóng Sinh tạo ra âm dương điều hòa, cảnh “tiền thủy hậu sơn” tuyệt đẹp.

Hồ Phóng Sinh có chiều ngang 63m, chiều dài 77m, diện tích gần 5000m2
Hồ Phóng Sinh có chiều ngang 63m, chiều dài 77m, diện tích gần 5000m2

Điện pháp chủ

Điện pháp chủ chùa Bái Đính thờ Phật Tổ xây dựng toàn bằng bê tông cốt thép giả gỗ rất đồ sộ, hoành tráng, cao đến nóc gần 30m, dài 44,7m, rộng 43,3m, có diện tích 1.945m , gồm 2 tầng mái cong, có 8 mái ở bốn phía và một hàng cổ lâu để nâng độ cao, lấy ánh sáng và thông khí, bờ đao cao tới l,3m, mái đao cao 2,6m, riêng mặt nguyệt ở đỉnh mái cao đến 4,4m, đầu kìm cao 3,3m.

Trong điện pháp chủ chùa Bái Đính thờ Phật Tổ có ba cửa võng, ba bức hoành phi và các câu đối thúc đổng (câu đối bằng đồng thúc chữ và hoạ tiết) đều ca ngợi công đức của Phật và cảnh đẹp của chùa. Đó là những sản phẩm của trí tuệ con người, cũng là di sản văn hoá Phật giáo, văn hoá dân tộc của nước ta: Các câu đối này cũng dài và rộng lớn nhất Việt Nam. Điện Pháp Chủ có 5 gian, gian giữa đặt pho t­ượng Thích Ca Mâu Ni ngồi trên toà sen và niệm hoa sen cao 10 m, nặng 100 tấn. Được xác nhận kỷ lục ”Pho tượng Phật Thích Ca bằng đồng lớn nhất Việt Nam”.

Điện pháp chủ chùa Bái Đính thờ Phật Tổ
Điện pháp chủ chùa Bái Đính thờ Phật Tổ

Điện tam thế

Toà Tam Thế cũng xây dựng bằng bê tông cốt thép giả gỗ, có 3 tầng mái uốn cong, gồm 12 mái ở bốn phía. Tất cả các mái được uốn cong, lợp bằng ngói men ống Bát Tràng màu nâu sẫm. Các góc của mái đều có mái đao cong lên như hình đuôi chim phượng làm cho mái uốn lượn, uyển chuyển, hài hoà như sóng nước thuỷ triều, như con thuyền trôi trên nước, như hai cánh chim đang dang rộng để bay lên. Trong điện Tam Thế đặt 3 pho t­ượng Tam Thế Phật (quá khứ, hiện tại và tương lai) bằng đồng cao 7.2 m, nặng 50 tấn. Được xác nhận kỷ lục: “Ngôi chùa có bộ tượng Tam Thế bằng đồng lớn nhất Việt Nam”.

Từ sân, có hai lối lên toà Tam Thế chùa Bái Đính, mỗi lối rộng 8m, gồm 32 bậc đá theo độ cao từ sân lên đến hiên là 4m. Giữa hai lối lên còn làm một phù điêu đá hình vuông mỗi chiều 10m, có diện tích 100m2 được ghép bằng nhiều phiến đá có độ dày 0,2m. Bốn góc của phù điêu đá, phía trên chạm khắc hai con phượng chầu, phía dưới bên phải chạm khắc con rùa, bên trái chạm khắc con ly, ở giữa là hình mặt nguyệt rộng bên trong chạm khắc con rồng uốn lượn. Bức phù điêu đá lớn này chạm khắc tứ linh.

Điện tam thế
Điện tam thế

Vườn Bồ Đề

Bái Đính là ngôi chùa có nhiều cây Bồ đề nhất Việt Nam. Ngày 17/5/2008, nhân ngày Đại lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc Việt Nam 100 cây bồ đề triết từ gốc bồ đề Ấn Độ đã được các nhà lãnh đạo Việt Nam và thế giới trồng trong khuôn viên chùa.

Vườn Bồ Đề trước cửa Điện Tam Thế
Vườn Bồ Đề trước cửa Điện Tam Thế

Nhà bia

Nhà bia gồm 55 gian, chủ yếu ghi tên những người tiến cúng xây dựng chùa Bái Đính. Phía tây, đông và nam mỗi bên là 18 gian, mỗi gian để một tấm bia đá trên lưng con rùa đá. Mỗi bia đặt trên lưng rùa cao 2,9m, rộng 1,45m, dày 0,40m. Con rùa đá dài 2,95m, chiều ngang của thân rộng 1,70m, dày 0,97m. Bia đá ở gian giữa đặt trên bệ rồng cao nhất, cao 6,9m (tính cả bệ), rộng 3,5m, dày 0,6m.

Mỗi tấm bia được gắn trên lưng một con rùa đá
Mỗi tấm bia được gắn trên lưng một con rùa đá

Tượng Phật Di Lặc

Tượng Phật Di Lặc đặt trên đỉnh đồi cao nhất trong khu chùa, cao khoảng 100m so với sân chùa. Đó là Phật Vị Lai, đúc bằng đồng ở tư thế hóa thân thành Hòa thượng đi hành khất. Tượng cao hơn 10m, nặng 80 tấn.

Tượng Phật Di Lặc
Tượng Phật Di Lặc

Bảo tháp Chùa Bái Đính

Với chiều cao 100 m, 13 tầng, có thang máy và 72 bậc leo, tòa bảo tháp tại chùa Bái Đính là nơi trưng bày xá lợi Phật từ Ấn Độ.

Bảo tháp Chùa Bái Đính
Bảo tháp Chùa Bái Đính

2. Chùa Bái Đính cổ

Chùa Bái Đính cổ (Bái Đính cổ tự) nằm cách điện Tam Thế của khu chùa mới khoảng 800 m về phía nam. Khu chùa này quay hướng chính tây, nằm gần trên đỉnh của một vùng rừng núi khá yên tĩnh, gồm có một nhà tiền đường ở giữa, rẽ sang bên phải là hang sáng thờ Phật, rồi đến đền thờ thần Cao Sơn ở sát cuối cửa sau của hang sáng; rẽ sang bên trái là đền thờ thánh Nguyễn rồi đến động tối thờ mẫu và tiên. Nơi đây nằm ở vùng đất hội tụ đầy đủ yếu tố nhân kiệt theo quan niệm dân gian Việt Nam, đó là đất sinh Vua, sinh Thánh, sinh Thần. Mặc dù khu chùa có lịch sử hình thành từ thời Đinh với đền thờ Cao Sơn trấn tây Hoa Lư tứ trấn nhưng chùa Bái Đính cổ có nhiều chi tiết kiến trúc và cổ vật mang dấu ấn đậm nét của thời Lý.

Hang Sáng – Động Tối

Lên thăm hang động ở núi Bái Đính phải bước trên 300 bậc đá, qua cổng tam quan ở lưng chừng núi. Lên hết dốc là tới ngã ba: bên phải là hang sáng thờ Phật và Thần, bên trái là động tối thờ Mẫu và Tiên.

Hang Sáng thờ Phật
Hang Sáng thờ Phật

Phía trên cửa hang sáng có 4 chữ đại tự “Minh Đỉnh Danh Lam” khắc trên đá do Lê Thánh Tông ban tặng có nghĩa là: “Lưu danh thơm cảnh đẹp”. Khi lên vãn cảnh chùa trên đỉnh Bái Đính, vua Lê Thánh Tông đã tạc một bài thơ tứ tuỵêt chữ Hán được dịch như sau:

"Đính Sơn danh tiếng thực cao xa
Che chở kinh thành tự thuở xưa
Nhân kiệt, địa linh nên vượng khí
Núi thiêng cảnh đẹp vững sơn hà."

Động dài 25m, rộng 15m, cao trung bình là 2m, nền và trần của động bằng phẳng. Đi tiếp theo ngách đá bên trái cuối hang sẽ dẫn tới một cửa hang sáng và rộng, một thung lũng xanh hiện ra. Nếu đi tiếp xuống các bậc đá sẽ đến đền thờ thần Cao Sơn. Quay trở lại ngã ba đầu dốc, theo đường rẽ trái khoảng 50m là tới động Tối. Động Tối lớn hơn hang Sáng, gồm 7 buồng, có hang trên cao, có hang ở dưới sâu, các hang đều thông nhau qua nhiều ngách đá, có hang nền bằng phẳng, có hang nền trũng xuống như lòng chảo, có hang trần bằng, có hang được tạo hóa ban tặng cho một trần nhũ đá rủ xuống muôn hình vạn trạng. Trong động tối có giếng ngọc tạo thành do nước lạnh từ trần động rơi xuống. Các vị Tiên được thờ ở nhiều ngách trong động.

 Động Tối thờ Mẫu
 Động Tối thờ Mẫu

Đền thờ thánh Nguyễn

Lý Quốc Sư Nguyễn Minh Không là người sáng lập chùa Bái Đính. Ông là một thiền sư, pháp sư tài danh được vua phong Quốc sư và nhân dân tôn sùng gọi là đức thánh Nguyễn. Khu vực núi Đính nằm cách quê hương đức thánh Nguyễn Minh Không 4 km. Tương truyền khi ông đến đây tìm cây thuốc chữa bệnh hóa hổ cho vua Lý Thần Tông đã phát hiện ra các hang động đẹp liền dựng chùa thờ Phật và tạo dựng một vườn thuốc quý để chữa bệnh cho dân. Đền thánh Nguyễn nằm ngay tại ngã ba đầu dốc, xây theo kiểu tựa lưng vào núi, trong đền có tượng của ông được đúc bằng đồng.

Quốc sư Nguyễn Minh Không là con người mang ánh xạ của thời đại nhà Lý. Ông đã học hỏi, sưu tầm những kiến thức y học dân gian, hàng ngày tìm thuốc trong vườn Sinh Dược mà trở thành danh y, chữa bệnh lạ cho Vua, sưu tầm và phục hưng nghề đúc đồng – tinh hoa của văn minh Đông Sơn – văn minh Việt cổ mà trở thành tổ sư nghề đúc đồng. Ông khó công tầm sư học đạo, để từ một nhà sư ở từ phủ Tràng An ra kinh thành làm Quốc sư, đứng đầu hàng tăng ni trong nước, danh vọng và đạo pháp đạt đến đỉnh cao. Hành trạng của ông thể hiện nên cái không khí của Phật giáo thời Lý thần bí, kỳ dị, đầy rẫy sự hoang đường nhưng đóng góp hết sức tích cực vào công cuộc phục hưng và phát triển văn hoá dân tộc Việt Nam về nhiều mặt: triết lý, văn học, kiến trúc, mỹ thuật, kỹ nghệ… làm nền tảng cho sự phát triển của văn hoá Việt sau này.

Đền thờ Quốc sư Nguyễn Minh Không
Đền thờ Quốc sư Nguyễn Minh Không

Đền thờ thần Cao Sơn

Đi hết hang sáng có một lối dẫn xuống sườn thung lũng của rừng cây sưa là đền thờ thần Cao Sơn, vị thần cai quản vùng núi Vũ Lâm. Đinh Bộ Lĩnh từ thuở còn hàn vi đã được mẹ đưa vào sống cạnh đền sơn thần trong động. Khi xây dựng kinh đô Hoa Lư, Đinh Tiên Hoàng Đế cũng cho xây dựng 3 ngôi đền để thờ các vị thần trấn giữ ở 3 vòng thành mà dân gian gọi là Hoa Lư tứ trấn Theo đó, thần Thiên Tôn trấn giữ cửa ngõ vào vòng thành phía Đông, thần Quý Minh trấn giữ cửa ngõ vào thành Nam và thần Cao Sơn trấn giữ cửa ngõ vào vòng thành phía Tây. Ngôi đền thần Cao Sơn hiện tại được tu tạo có kiến trúc gần giống với đền Thánh Nguyễn, cũng xây tựa lưng vào núi, có hành lang ngăn cách với thung lũng ở phía trước. Theo truyền thuyết, thần Cao Sơn là một trong 50 người con của Lạc Long Quân – Âu Cơ. Đền thờ chính của thần ở Phụng Hóa (Nho Quan, Ninh Bình). Vị thần này có công phù trợ quân Lê Tương Dực diệt được Uy Mục, sau cũng được dân làng Kim Liên rước về thờ và được phong là Cao Sơn đại vương trấn phía Nam kinh thành, một trong Thăng Long tứ trấn.

Theo như thần phả của đền núi Hầu (xã Yên Thắng, Yên Mô, Ninh Bình) thì Cao Sơn đại vương là Lạc tướng Vũ Lâm, con thứ 17 vua Lạc Long Quân, khi đi tuần từ vùng Nam Lĩnh đến vùng Thiên Dưỡng ở hành cung Vũ Lâm, đã tìm ra một loài cây thân có bột dùng làm bánh thay bột gạo, lấy tên mình đặt tên cho cây là Quang lang (dân địa phương vẫn gọi là cây quang lang hay cây búng báng). Thần đã dạy bảo và giúp đỡ người dân làm ăn sinh sống đồng thời bảo vệ khỏi các thế lực phá hoại vì vậy đã được nhân dân lập đền thờ. Thần Cao Sơn cùng với thần Thiên Tôn và thần Quý Minh là ba vị thần trấn ngự ở ba cửa ngõ phía tây, đông và nam của cố đô Hoa Lư.

Đền thờ thần Cao Sơn
Đền thờ thần Cao Sơn

Giếng ngọc

Giếng ngọc của chùa Bái Đính cổ nằm gần chân núi Bái Đính. Tương truyền đây là nơi thiền sư Nguyễn Minh Không đã lấy n­ước để sắc thuốc chữa bệnh cho dân và chữa bệnh cho Vua Lý Thần Tông. Giếng xây lại hình mặt nguyệt, rất rộng, có đường kính 30 m, độ sâu của n­ước là 6 m, không bao giờ cạn n­ước. Miệng giếng xây lan can đá. Khu đất xung quanh giếng hình vuông, có diện tích 6.000 m², 4 góc là 4 lầu bát giác.

Giếng Ngọ xây hình bán nguyệt
Giếng Ngọc xây hình bán nguyệt

Ăn gì khi du lịch Bái Đính

Thịt dê Ninh Bình

Thịt dê núi Ninh Bình có đặc trưng săn chắc, ít mỡ và có vị thơm. Người ta cho rằng sở dĩ như vậy vì ở Ninh Bình có nhiều núi đá, dê chạy nhảy nhiều nên cơ thịt săn chắc, ít mỡ hơn hẳn dê chăn thả trên đồi. Mặt khác, với địa hình đặc trưng của núi đá vôi ngập nước có rất nhiều các loại rau, cỏ, thảo dược thích hợp là thức ăn cho dê như giò gai, giò vàng, bách bộ, ô zô, lim xẹt, móng bò, dướng, bầu trích, mộc sông, mõm chuột, xoan dù, cà gai leo, tạo nên chất lượng và vị ngon của thịt dê. Một số nguyên liệu và đặc sản sở tại khác cũng góp phần làm nổi bật các món thịt dê Ninh Bình phải kể đến các loại rau ăn kèm đặc trưng địa hình núi đá, rượu Kim Sơn, rượu cần Nho Quan và cơm cháy Ninh Bình.

Thịt dê Ninh Bình
Thịt dê núi Ninh Bình có đặc trưng săn chắc, ít mỡ và có vị thơm

Cơm cháy Ninh Bình

Món cơm cháy không phải là món ăn cổ truyền của người Ninh Bình, nhưng do một người con cố đô sáng tạo ra và được lưu giữ, phát triển cho tới nay. Một món ăn mộc mạc, thể hiện sự khéo léo của bàn tay con người, đã được lưu truyền cả trăm năm nay, trở thành đặc sản của vùng đất cố đô,một trong những món ngon nổi tiếng của Ninh Bình.

Cơm cháy Ninh Bình
Cơm cháy Ninh Bình

Gỏi cá nhệch Kim Sơn

Cứ vào cữ mưa ngâu độ 2 tháng là mùa đi bắt cá nhệch. Cá nhệch cùng họ với lươn nhưng nhệch sống ở nơi nước hơi mặn (nhệch củ) và sống ở nước lợ (nhệch khét). Nhệch củ to ngang, nhệch khét dài. Cá nhệch giống lươn về độ dài, nhưng bề ngang lại giống cá chình. Cá nhệch có con dài hàng mét, con nhỏ 3 – 4 lạng, con to nặng tới vài cân. Cá nhệch trơn và dữ tợn, nên đánh bắt không dễ dàng.

Gỏi nhệch ở đây được ăn kèm nhiều loại rau, gia vị như lá sung, lá ổi, lá đinh lăng, lá lộc vừng, lá mơ, khế chua, lá vọng cách. Người ta quấn các loại lá ấy thành một chiếc phễu, cho thịt nhệch vào, quết nước chẻo lên, thêm vài hạt muối trắng, vài lát hành khô và có thể thêm lát ớt tươi rồi gói lại.

Gỏi cá nhệch Kim Sơn
Gỏi cá nhệch Kim Sơn

Gà ri Cúc Phương

Gà ri Cúc Phương từ lâu đã trở thành loài vật nuôi đặc sản của huyện Nho Quan (Ninh Bình), loài gà này được nuôi ở vùng rừng núi Cúc Phương, với khí hậu và điều kiện tự nhiên phù hợp nên thịt thơm và ngon, rất được ưa thích.

Gà ri Cúc Phương
Gà ri Cúc Phương

Dứa Đồng Giao

Dứa Đồng Giao là thương hiệu nông sản của vùng đất Tam Điệp, Ninh Bình. Quả dứa Đồng Giao có mặt trong sách Top 50 trái cây đặc sản nổi tiếng nhất Việt Nam. Dứa Đồng Giao cùng với cá rô Tổng Trường, dê núi và cơm cháy Ninh Bình được coi là những đặc sản ẩm thực tiêu biểu của Ninh Bình.

Dứa Đồng Giao - Đặc sản ẩm thực tiêu biểu của Ninh Bình
Dứa Đồng Giao - Đặc sản ẩm thực tiêu biểu của Ninh Bình

Xôi trứng kiến Nho Quan

Xôi là một món ăn phổ biến với người Việt, nhưng không phải ai cũng biết đến đặc sản xôi trứng kiến quý hiếm, độc đáo của vùng Nho Quan (Ninh Bình). Với địa hình núi đá vôi lởm chởm, Nho Quan thường có rất nhiều loại kiến nâu làm tổ trên ngọn cây (có nơi gọi là kiến ngạt, kiến cong trôn). Loài này cho các loại trứng béo ngậy và nhiều đạm. Người dân đã sử dụng nguyên liệu này một cách khéo léo để sáng tạo ra món xôi trứng kiến vừa ngon lạ, vừa rất giàu dinh dưỡng.

Trứng kiến sau khi mang về sẽ được cho vào nước ấm đãi thật sạch, để ráo, ướp bột canh rồi đem phi với hành khô và mỡ gà cho đến lúc vừa chín tới và dậy hương thơm béo ngậy. Sau đó, trứng kiến được gói vào trong lá chuối ngự đã hơ chín rồi đặt vào trong chõ xôi. Khi thấy xôi dậy hương thơm thoang thoảng thì bắc ra, mở gói trứng kiến vàng óng màu hổ phách rắc đều lên trên, dùng đũa xới nhẹ cho thật đều và đơm lên đĩa ăn nóng.

Xôi trứng kiến Nho Quan
Xôi trứng kiến Nho Quan

Đặc sản Ninh Bình mua về làm quà

Ngoài những món ăn ngon ở Ninh Bình mà các bạn có thể thưởng thức trong suốt hành trình khám phá mảnh đất cố đô, Ninh Bình còn có rất nhiều đặc sản mà các bạn có thể mua về làm quà cho gia đình và bạn bè.

Nem chua Yên Mạc

Nem chua Yên Mạc là đặc sản của Ninh Bình, do con gái của quan Thượng thư Phạm Thận Duật là Phạm Thị Thư sáng tạo nên dựa trên món nem chua cung đình Huế triều Nguyễn. Ăn nem chua Yên Mạc ngon nhất là ăn kèm với các loại lá sung, lá mơ, lá đinh lăng. Tất cả tạo nên một vị tổng hòa thật đặc biệt, rất đắm thắm vị quê hương. Dù ăn ngay hay để lâu, khi gỡ nem ra vẫn rời, tơi, có màu hồng của thịt lợn.

Nem chua Yên Mạc
Nem chua Yên Mạc

Mắm tép Gia Viễn

Mắm tép Gia Viễn Ninh Bình cũng giống như mắm tép ở các vùng khác với nguyên liệu chủ yếu là làm từ những con tép riu còn tươi, có hình dáng nhỏ, thân tròn màu xanh lam hoặc màu đỏ và ngon nhất vẫn là tép ở sông Hoàng Long. Sản phẩm mắm tép Gia Viễn có màu đỏ tươi đẹp mắt, lại có mùi thơm và vị mặn ngọt đặc trưng mắm tép. Mắm tép Gia Viễn có độ sánh vừa phải, không quá lỏng, vị mặn ngọt hòa quyện vừa ăn, kích thích vị giác, đã thử một lần khó mà quên được.

Mắm tép Gia Viễn
Mắm tép Gia Viễn

Rượu cần Nho Quan

Rượu cần Nho Quan là loại rượu không qua chưng cất lửa. Người ta dùng gạo nếp xay (gạo lứt) nấu thành cơm trộn đều với men đem ủ vào trong ang hoặc vò sành từ 3 tháng trở lên mới đem ra uống. Khi sắp uống, đem đổ nước vào ang. Nước đầu bao giờ cũng ngon và ngọt, đổ nước tiếp, rượu sẽ nhạt dần. Uống rượu cần không dùng chén, mà phải có các cần rượu làm bằng thân các cây trúc được thông rỗng bên trong cắm vào ang rượu.

Rượu cần ngon hay không là do men làm có chất lượng không. Men rượu phải là vỏ cây mun cùng với củ giềng, củ gừng, lá ổi xanh theo tỷ lệ nhất định, đem giã vắt lấy nước rồi trộn với bột gạo nếp. Sau đó nặn thành bánh tròn bằng quả ổi nhỏ ủ vào trấu cho phồng lên, để khô khoảng 10 ngày mới dùng được.

Rượu cần Nho Quan
Rượu cần Nho Quan

Rượu nếp Kim Sơn

Rượu Kim Sơn là rượu được chưng cất từ gạo nếp, men thuốc bắc, nguồn nước giếng khơi tự nhiên, sản xuất theo bí quyết của người dân các làng nghề tại Kim Sơn. Rượu thường có nồng độ cao, trong suốt, bọt tăm rượu càng to thì độ rượu càng cao. Trước đây, rượu được đựng trong các vò đất và nút lá chuối khô, khi uống vào cảm thấy rất thơm và êm dịu. Cùng với những người Kim Sơn di cư, rượu Kim Sơn đã đi đến nhiều vùng của Việt Nam. Ngày nay rượu Kim Sơn đã được đóng chai và bán trên thị trường.

Trên đây là những kiến thức sưu tầm và tổng hợp cũng như kết quả đúc kết từ việc thực tế đi chùa Bái Đính vào dịp đầu xuân. Rất mong những thông tin trên hữu ích cho các bạn chọn Bái Đính là điểm đến trong cuộc hành trình tiếp theo.

Anh/Chị muốn làm đại lý online, cộng tác viên online (Kinh doanh online không cần vốn)

Đăng ký qua link: https://aff.thuonghieuvietnoitieng.com/admin/register

Hoặc liên hệ hotline : 0983837488,0912888586 để được hỗ trợ trực tiếp !